1. Từ Atlas Diesel đến Atlas Copco
Hai công ty AB Nya Atlas và AB Diesels Motorer có cùng chủ sở hữu, và đây là một trong những lý do họ hợp nhất vào năm 1917. Công ty Atlas Diesel được sáp nhập có hai lĩnh vực sản phẩm chính – động cơ diesel và sản phẩm khí nén.

Chủ tịch Gunnar Jacobsson của Nya Atlas được bổ nhiệm làm chủ tịch của công ty chung. Tuy nhiên, kỹ sư có ảnh hưởng lớn Jonas Hesselman từ Atlas Diesel đã rời công ty ngay sau khi sáp nhập, do những khó khăn trong việc hợp tác với Jacobsson. Những năm trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã mang lại sự thăng hoa cho hai công ty và cho đến khi kết thúc chiến tranh, xuất khẩu đã trở nên rất quan trọng. Từ 40 đến 50 phần trăm sản lượng được xuất khẩu. Chứng trầm cảm nặng sau chiến tranh bắt đầu vào đầu những năm 1920, và sau thời gian nghỉ ngơi vài năm, cuộc đại suy thoái trên toàn thế giới bắt đầu vào cuối thập kỷ. Cả hai lần áp thấp đều gây ra tổn thất đáng kể cho Atlas Diesel. Điều này dẫn đến hai lần tái thiết tài chính của công ty, lần đầu tiên vào năm 1925 và một lần nữa vào năm 1934. Sau khi tái thiết năm 1925, xưởng máy lớn tại Atlas đã bị đóng cửa sau khi tất cả các hoạt động còn lại được chuyển đến Sickla. Việc sản xuất các mặt hàng đa dạng không có lợi đã bị loại bỏ cùng lúc với các ngành sản xuất còn lại được hướng tới tiêu chuẩn hóa và sản xuất hàng loạt. Thời kỳ thịnh vượng bắt đầu vào năm 1925 với doanh số bán hàng tăng mạnh, cho cả các sản phẩm khí nén và động cơ diesel. Mặc dù vậy, Atlas Diesel không phải là một công ty có lãi. Nó phải chịu gánh nặng về công suất đáng kể và do đó chi phí cao. Một lý do cho điều này là sự tham gia sâu rộng vào việc phát triển động cơ diesel.
2. Tổn thất cho hoạt động của động cơ
Các nghiên cứu vào đầu những năm 1930 cho thấy sự thua lỗ đối với các hoạt động của động cơ, trong khi các hoạt động khí nén đang hoạt động với lợi nhuận 50% và sự phát triển này có thể sẽ tiếp tục. Tuy nhiên, ban lãnh đạo công ty tin rằng công việc thiết kế trong lĩnh vực động cơ diesel sẽ có kết quả. Mãi đến giữa những năm 1930, thị trường mới phục hồi và nhu cầu về sản phẩm ngày càng tăng. Từ năm 1934 đến năm 1939, tổng doanh số bán hàng đã tăng từ chỉ hơn 6 triệu SEK lên gần 16 triệu SEK. Các hoạt động vận hành bằng khí nén là mở rộng nhất, trong khi động cơ diesel là sản phẩm tiên tiến nhất, nhờ vào sự phát triển tiết kiệm chi phí. Gunnar Jacobsson rời ghế chủ tịch sau hơn 30 năm phục vụ. Ban giám đốc hiện ưa thích một người có nền tảng kinh doanh vững chắc làm chủ tịch – Walter Wehtje, bạn thân của Marcus Wallenberg. Xung đột nảy sinh giữa Wehtje và phó chủ tịch Herman Pyk, người trái ngược với Wehtje, coi dầu diesel là sản phẩm chính của công ty. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Atlas Diesel đã thành công trong việc đạt được hai mục tiêu: duy trì mức độ hoạt động cao, và thông qua việc phát triển sản phẩm và cơ cấu tổ chức, chuẩn bị cho một bước đột phá về doanh số vào cuối chiến tranh.

3. Chiến lược mở rộng
Trước thời kỳ hòa bình sắp tới sau chiến tranh thế giới thứ hai, công ty đã vạch ra một chiến lược mở rộng rõ ràng. Thành công trong bán hàng phải dựa trên một loạt các sản phẩm mạnh, và đây chỉ là những gì đã bắt đầu xuất hiện từ hoạt động khí nén của công ty. Sự phát triển của công ty sau chiến tranh theo hai hướng chính: mở rộng năng lực sản xuất thông qua các biện pháp hiệu quả và mua máy móc ở Sickla, và mua lại các công ty con sản xuất ở Thụy Điển và các nước khác.
Cùng với Sandvikens Jernverk, trong những năm chiến tranh, Atlas Diesel đã phát triển một khái niệm công nghệ mới – Phương pháp Thụy Điển – mà sau chiến tranh có thể bắt đầu được tiếp thị và bán. Khái niệm này – với nền tảng được cấu thành bởi các mũi khoan đá nhẹ và mũi khoan có đầu cacbua – đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ chương trình khí nén của công ty. Atlas Diesel cuối cùng đã chấm dứt hoạt động sản xuất động cơ diesel ít lợi nhuận hơn vào năm 1948, khi Nydqvist & Holm (NOHAB) đặt thầu để tiếp quản hoạt động. Cái tên Atlas Diesel không còn phù hợp nữa và một cái tên mới đã được tìm kiếm để vừa phản ánh loại hình hoạt động của công ty vừa mang lại sự đồng nhất cho các công ty con nước ngoài. Máy nén khí Atlas Copco đã được chọn, bắt nguồn từ tên của một công ty con của Bỉ – Compagnie Pneumatique Commerciale. Quyết định đổi tên công ty được đưa ra vào mùa thu năm 1955 và công việc đổi tên được bắt đầu vào năm 1956.